Myristyl Myristate
Phân loại:
Thành phần khác
Mô tả:
Myristyl Myristate là gì?
Myristyl myristate là một este có nguồn gốc tự nhiên, là kết quả của sự kết hợp giữa myristyl alcohol (rượu myristyl) và axit myristic.
Myristyl alcohol là loại rượu béo bão hòa mạch thẳng, còn axit myristic là một axit béo bão hòa với 14 nguyên tử carbon. Hai thành phần này đều được đặt tên theo tên khoa học của hạt nhục đậu khấu (Myristica Fragrans).

Năm 1841, Myristyl myristate được phân lập lần đầu tiên bởi nhà khoa học Lyon Playfair. Một số loại dầu và chất béo, bao gồm bơ hạt nhục đậu khấu có chứa 75% trimyristin - chất béo trung tính của axit myristic. Ngoài ra, trong dầu hạt cọ, dầu dừa, bơ, sữa bò, sữa mẹ cũng có chứa axit myristic. Chất này tồn tại dưới dạng chất rắn màu trắng hoặc hơi vàng.
Ở nồng độ 1 đến 10%, myristyl myristate có thể được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc da và chăm sóc cá nhân, bao gồm các loại phấn mắt, xà phòng, chất tẩy rửa, sản phẩm chăm sóc tóc - da đầu, sản phẩm chăm sóc móng, sản phẩm cạo râu và các sản phẩm chăm sóc da khác.
Dược động học:
Dược lực học:
Xem thêm
Butylene Glycol là gì?
Trong các sản phẩm mỹ phẩm, Butylene glycol là một chất lỏng có vai trò giữ độ ẩm và làm dung môi. Butylene glycol sẽ giúp cho kem thấm vào da nhanh hơn, đồng thời cũng giúp làm giảm đáng kể độ nhờn rít trên da sau khi sử dụng.
Butylene glycol có mặt trong công thức nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân, bao gồm dầu gội, dầu xả, kem dưỡng da, mỹ phẩm và nhiều loại khác. Tuy nhiên, Butylene glycol đặc biệt được ưu tiên dùng trong các sản phẩm dạng gel và trang điểm giúp lướt nhẹ nhàng trên khuôn mặt.

Có thể nói, Butylene Glycol là thành phần quan trọng trong công thức mỹ phẩm nhờ tác dụng làm giảm độ nhớt, giúp các thành phần trong sản phẩm có thể dính vào nhau, từ đó các sản phẩm trang điểm và chăm sóc da cũng trở nên lỏng và đồng đều hơn. Ngoài ra, Butylene Glycol cũng được dùng như một chất dưỡng giúp thêm một lớp mềm mại hoặc cải thiện kết cấu cho tóc/da.
Điều chế sản xuất Butylene Glycol
Butylene glycol là một thành phần phổ biến trong mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân, được sử dụng để giữ ẩm, giúp các thành phần không bị vón cục.
Butylene Glycol thường được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch bằng cách sử dụng acetaldehyde, có nguồn gốc từ dầu mỏ và là một chất có thể gây ung thư. Các phương pháp tổng hợp thông thường cũng sử dụng các chất xúc tác kim loại nặng nguy hại cho môi trường và yêu cầu nhiều bước phản ứng, làm tăng chất thải từ quy trình.
Sau đó, công ty Genomatica đã phát triển một phương pháp sản xuất butylene glycol từ quá trình lên men bởi E. coli bằng cách sử dụng đường tái tạo trong quy trình sản xuất một bước. Phương pháp sản xuất này loại bỏ nhu cầu về kim loại nặng và nguyên liệu dầu mỏ như acetaldehyde được sử dụng trong tổng hợp Butylene Glycol thông thường.
Cơ chế hoạt động của Butylene Glycol
Trong sản phẩm, Butylene Glycol hoạt động để thúc đẩy tăng cường khả năng xâm nhập của những thành phần khác. Vì các hoạt chất có trong kem dưỡng thường có kích thước phân tử lớn nên khó có thể thẩm thấu qua da. Trên thực tế, những thành phần có thể thấm qua da rất ít, còn phần lớn thành phần đều tích tụ trên bề mặt. Điều này không hề tốt đối với sự phát triển của da. Butylene Glycol đóng vai trò quan trọng khi giúp tăng cường sự xâm nhập vào da của các thành phần, từ đó nâng hiệu quả tổng thể của sản phẩm lên đáng kể.
Không dừng lại đó, Butylene Glycol còn có khả năng tạo độ mỏng cần thiết cho texture. Nếu bạn bôi lớp kem quá dày sẽ khiến da dễ bị bóng nhờn, gây cảm giác khó chịu. Butylene Glycol được thêm vào trong công thức để giúp khắc phục điều này, giúp da có được cảm giác thoải mái hơn. Mặt khác, Butylene Glycol cũng giúp làm giảm thời gian thẩm thấu của lớp kem trên da, tiết kiệm thời gian hiệu quả.

Ở vai trò là một dung môi, Butylene Glycol hoạt động làm cho những thành phần khác trong công thức được trộn vào nhau đều hơn, kết cấu sản phẩm nhờ đó cũng đồng nhất hơn.
Đặc biệt, Butylene Glycol còn có đặc tính dưỡng ẩm khi có thể hút độ ẩm từ không khí để cung cấp cho da. Điều này sẽ tăng cường khả năng hydrat hiệu quả ở các tế bào da. Chưa dừng lại ở đó, Butylene Glycol còn giúp hạn chế hiệu quả nếp nhăn hình thành trên da.
Poria Cocos Extract là gì?
Poria Cocos Extract là chiết xuất từ nấm Phục Linh - loài nấm thuộc chi Wolfiporia trong họ Polyporaceae. Trong y học cổ truyền, nấm phục linh là một vị thuốc thường được sử dụng với công dụng giúp bồi bổ cơ thể.
Nấm Phục linh mọc hoại sinh trên rễ cây thông. Quả thể hình khối to, có màu xám đen ở mặt ngoài, nhăn nheo, có khi hình bướu. Khi cắt ngang loại nấm này chúng ta sẽ thấy mặt lổn nhổn màu trắng hoặc hồng xám (đôi khi có rễ thông ở giữa nấm).

Bộ phận thường dùng là quả thể nấm (Poria, thường gọi là Phục linh). Dựa vào màu trắng, người ta phân biệt loại màu trắng gọi là Bạch linh, loại hồng xám gọi là Phục linh, còn Phục thần là loại có rễ thông đâm xuyên giữa.
Nấm thường được thu hoạch vào tháng 10-11 sau tiết lập thu. Sau khi nấm được đào lên sẽ ngâm nước một ngày, rửa sạch, gọt bỏ vỏ, đồ lên, thái mỏng 2-3mm, phơi hay sấy khô. Tùy theo mục đích sử dụng mà quá trình xử lý nấm sẽ khác nhau. Chúng ta có thể dùng nấm sắc với thuốc thang, hoặc chiết xuất nấm để dùng trong mục đích làm đẹp.
Dù là hình thức sử dụng nào thì nấm Phục linh và chiết xuất từ loại nấm này cũng mang lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe cơ thể lẫn làn da.
Astaxanthin là gì?
Trong một số loại tảo, tạo ra màu hồng hoặc đỏ cho cá hồi, tôm và các loại hải sản khác có thành phần Astaxanthin - thuộc một nhóm hóa chất carotenoid. Ngoài dầu cá cùng axit béo omega-3, Astaxanthin là một dưỡng chất từ đại dương đem lại nhiều lợi ích cải thiện các chức năng trong cơ thể con người.
Chất chống oxy hóa Astaxanthin có thể bảo vệ các tế bào khỏi bị hư hại, cải thiện cách hoạt động của hệ miễn dịch. Công dụng của astaxanthin được đánh giá khá tốt. Nó giúp làn da khỏe mạnh hơn, tăng sức bền, sức khỏe tim mạch, giảm đau khớp và thậm chí có thể điều trị ung thư trong tương lai.

Astaxathin đã được sử dụng điều trị bệnh Alzheimer, Parkinson, đột quỵ, cholesterol cao, bệnh gan, thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (mất thị lực do tuổi tác) kể cả ngăn ngừa ung thư. Nó còn được sử dụng điều trị cho hội chứng chuyển hóa - bao gồm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và tiểu đường. Tác dụng của astaxathin cải thiện hiệu suất tập thể dục, giảm tổn thương cơ và đau nhức cơ sau khi tập luyện. Nó còn ngăn ngừa cháy nắng, cải thiện giấc ngủ, điều trị hội chứng ống cổ tay, chứng khó tiêu, vô sinh nam, các triệu chứng mãn kinh và viêm khớp dạng thấp.
Astaxanthin dạng kem được thoa trực tiếp lên da giúp chống nắng, giảm nếp nhăn và nhiều lợi ích thẩm mỹ khác.
Astaxanthin được dùng trong nông nghiệp để làm thức ăn bổ sung cho gà đẻ trứng. Trong thự phẩm, astaxanthin được sử dụng làm chất tạo màu cho cá hồi, cua, tôm, gà và trứng...
Điều chế sản xuất
Hoạt chất astaxanthin là hợp chất lipophilic được hòa tan trong dung môi và dầu với phương pháp dùng dung môi và axit, dầu ăn hỗ trợ vi sóng và enzyme được sử dụng để cấu trúc astaxanthin. Astaxanthin trong Haematococcus được cấu trúc bằng nhiều phương pháp sử dụng các axit khác nhau, có thể chiết bằng axit hydrochloric cho phép thu được tới 80% lượng sắc tố, astaxanthin được tích lũy trong các tế bào nang hóa của Haematococcus.
Đậu nành, ngô, ô liu và hạt nho được sử dụng để cấu trúc astaxanthin từ Haematococcus để làm dầu. Haematococcus nuôi cấy được trộn với các loại dầu và astaxanthin bên trong tế bào, nó được cấu trúc thành các loại dầu, với độ thu hồi cao nhất 93% với dầu ô liu. Astaxanthin và Haematococcus thu được sản lượng khá cao từ 80% 90% 90% sử dụng phương pháp cấu trúc chất lỏng siêu tới hạn với ethanol và dầu hướng dương làm đồng dung môi. Quy trình cô đặc Astaxanthin được cấu trúc nhiều lần bằng dung môi và sau đó làm bay hơi bằng thiết bị bay hơi quay, cuối cùng hòa tan lại trong dung môi.
Từ các vi sinh vật khác nhau bao gồm vi tảo Chlorella zofingiensis , Chlorococcum sp, nấm men đỏ Phaffia rhodozyma, và vi khuẩn biển Agrobacterium aurantiacum người ta sản xuất hoạt chất astaxathin. Nguyên liệu tự nhiên cung cấp nhiều AXT là tảo biển Haematococcus pluvialis, khi những sinh vật này tiếp xúc với các tác nhân gây căng thẳng từ môi trường, chúng sẽ tổng hợp AXT như một chất bảo vệ tế bào.
Astaxanthin chịu trách nhiệm tạo ra màu sắc cho vỏ giáp xác và thịt của kỳ giông và các loài cá khác ăn AXT và nó có sắc tố đỏ cam sẫm. Thức ăn hải sản là một nguồn thực phẩm dồi dào của AXT, muốn lấy được liều 4–20 mg AXT chỉ thông qua chế độ ăn uống, người ta sẽ phải tiêu thụ 600-2000g cá salmonoid.
Ở Hoa Kỳ từ năm 1999 AXT đã được phê duyệt như một chất bổ sung chế độ ăn uống. AXT được quảng cáo thương mại vì một loạt các lợi ích sức khỏe. Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm chứng nhận AXT là an toàn.
Mặc dù khả dụng sinh học bị ảnh hưởng nhiều bởi các thành phần khác của chế độ ăn uống nhưng AXT được tiêu hóa và hấp thụ tương tự như lipid và các carotenoid khác. Đối với AXT dùng đường có tỷ lệ cao hơn khi dùng trong bữa ăn hoặc được cung cấp trong công thức chế biến từ dầu. AXT được cho là tích tụ trong các giọt lipid trong dịch vị và sau đó kết hợp thành các mixen khi chúng gặp axit mật, phospholipid và lipase trong ruột non. Các mixen được khuếch tán thụ động vào màng sinh chất của các tế bào ruột.
AXT cũng như các xanthophylls phân cực hơn, được vận chuyển trong tuần hoàn bởi lipoprotein mật độ cao (HDL) và lipoprotein mật độ thấp (LDL), sau khi được giải phóng khỏi chylomicrons được hình thành trong tế bào ruột. Một số báo cáo rằng, sau khi dùng liều 100mg/kg, nồng độ trong huyết tương đạt đỉnh đến 1 μg/ml vào khoảng 9 giờ sau khi dùng thuốc. AXT được đưa vào nhiều mô, bao gồm não, nhưng chủ yếu tích tụ ở gan.
Cấu trúc hóa học của AXT bao gồm một chuỗi cacbon dài với các liên kết đôi liên hợp, nhưng AXT đặc biệt là nó chứa hai vòng hydroxyl hóa ionone ở hai đầu của phần ưa béo của phân tử liên kết với các đầu phân cực của phospholipit. Tính năng này định vị chính xác phân tử để nó có thể can thiệp vào quá trình peroxy hóa lipid, về mặt này, AXT đặc biệt thành thạo trong việc bảo vệ tính toàn vẹn của màng tế bào. Kích thước, cấu hình này của AXT cho phép nó tích hợp theo chiều dọc thông qua lớp kép phospholipid vì các nhóm chức năng của cấu trúc AXT thuận lợi về mặt năng lượng theo hướng này.
Cơ chế hoạt động
Có nhiều cách bổ sung astaxanthin, cách bổ sung bằng hình thức ăn thực phẩm giàu chất astaxanthin. Có thể bổ sung thực phẩm chức năng có thành phần astaxanthin vì cơ thể không tự sản xuất được astaxanthin. Cá hồi, tôm, tôm hùm và các loại hải sản khác giàu astaxathin.
Tuy nhiên, việc ăn nhiều hải sản cũng không hoàn toàn là ưu điểm để có được lượng astaxanthin cần thiết mà nên ăn đa dạng thức ăn. Muốn bổ sung lượng astaxanthin nhiều người chọn tảo Pluvialis có lượng astaxanthin sinh khả dụng cao nhất,3% sinh khối của nó là astaxanthin tinh khiết, cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt là một nguồn astaxanthin an toàn và khả thi.
Astaxanthin tổng hợp đã được sử dụng để sản xuất màu thực phẩm và thức ăn cho cá. Phaffia rhodozyma, một loại men đỏ phổ biến và một số loài giáp xác là hai nguồn astaxanthin thương mại chính khác.
Cơ chế hoạt động của staxanthin thực sự như thế nào? Có thể hiểu đơn giản đó là một chất chống oxy hóa.
- Astaxanthin rất mạnh và cao hơn gần 6.000 lần so với vitamin C.
- Nó có một nguồn chất chống oxy hóa nhiều hơn trà xanh hoặc các Catechin khác gần 550 lần.
- Astaxanthin có hiệu quả chống oxy hóa cao hơn vitamin 550 lần.
Đối với cơ thể, chất chống oxy hóa rất quan trọng, chúng đóng một vai trò lớn trong sự tăng trưởng và sức khỏe của con người. Thành phần Astaxanthingiúp cơ thể chống oxy hóa
Astaxanthin là một trong những cách tốt nhất để ăn chất chống oxy hóa vào cơ thể bạn. Chúng đóng một vai trò lớn trong sự tăng trưởng và sức khỏe của con người. Những hợp chất tiện lợi này có một số đặc tính chống viêm mạnh nhất.
Đặc tính chống oxy hóa của astaxanthincó khả năng giúp cơ thể chống lại nhiều loại bệnh như ung thư và giúp cải thiện về sức khỏe.
Chất chống oxy hóa là các phân tử giúp cơ thể chống lại gốc tự do, những phân tử này liên tục được phát hành trong quá trình trao đổi chất.
Astaxanthin có khả năng kiểm soát các gốc tự do vì vậy các gốc tự do không thể phá hủy các tế bào tốt.
Chất chống oxy hóa hoạt động trên các gốc tự do bằng cách tăng electron. Quá trình này làm cho các gốc tự do ổn định và trung hòa. Khi có sự cản trở sự cân bằng này có thể dẫn đến oxy hóa kém, có thể gây bất lợi cho cơ thể của chúng ta.
Không giữ được cân bằng oxy hóa kéo dài có thể dẫn đến tăng nguy cơ xấu về sức khỏe như rối loạn thoái hóa thần kinh, bệnh tim và một số bệnh ung thư. Thói quen lối sống và các yếu tố môi trường tác động đến khiến cơ thể chúng ta dễ bị bệnh tật do hằng ngày chúng ta tiếp xúc ới nhiều yếu tố rủi ro làm tăng sự hình thành gốc tự do.
Adipic Acid là gì?
Adipic Acid (hay acid hexanedioic) là hợp chất hữu cơ, công thức hóa học là (CH2)4(COOH)2.
Trong công nghiệp, Adipic Acid là acid dicarboxylic quan trọng nhất. Adipic Acid tồn tại ở dạng bột tinh thể màu trắng, mỗi năm được sản xuất vào khoảng 2,5 tỷ kg.

Chủ yếu là tiền chất để sản xuất nylon, Adipic Acid hiếm khi xuất hiện trong tự nhiên. Trong đời sống, Adipic Acid là phụ gia thực phẩm được sản xuất với số E là E355.
Một số tên gọi khác của Adipic Acid là:
-
Axit Hexanedioic;
-
Axit adipic Axit;
-
Butan-1,4-dicarboxylic Axit;
-
Hexan-1,6-dioic axit;
-
1,4-butanedicarboxylic.
Adipic Acid có khả năng tham gia phản ứng trùng ngưng.
Điều chế sản xuất Adipic Acid
Quá trình hydrocarboxyl hóa tiến hành như sau:
CH 2 = CH − CH = CH 2 + 2 CO + 2 H 2 O → HO 2 C (CH 2 ) 4 CO 2 H
Một phương pháp khác là phân cắt oxy hóa cyclohexene bằng hydro peroxide, thải ra nước.
Trong lịch sử, Adipic Acid được điều chế bằng cách oxy hóa các chất béo khác nhau.
Cetearyl Isononanoate là gì?

Cetearyl Isononanoate là một chất lỏng không màu, trong suốt hoặc màu vàng nhạt, không mùi có nguồn gốc từ dầu quả cọ hoặc dầu dừa thường được dùng như một chất làm mềm trong sản phẩm.
Thành phần này hòa tan trong đietyl ete và acetyl và hòa tan nhẹ trong metanol và n-octanol. Tuy nhiên, Cetearyl Isononanoate không hòa tan trong nước nóng và lạnh. Phạm vi điểm nóng chảy của Cetearyl Isononanoate là 48 độ C đến 56 độ C.
Chất này có độ nhớt trung bình với đặc tính kỵ nước mạnh (không thấm nước).
Cũng như các este được dùng trong sản phẩm chăm sóc cá nhân khác, Cetearyl Isononanoate hoạt động hiệu quả như một chất phụ gia mỹ phẩm trong các sản phẩm làm mềm và mịn da khô.
Cùng với Ethylhexyl isononanoate và Isononyl isononanoate, Cetearyl isononanoate là một trong những este của Isononanoic Acid được sử dụng thường xuyên nhất trong các sản phẩm mỹ phẩm.
Điều chế sản xuất
Cetearyl isononanoate xuất hiện tự nhiên trong dầu cacao và dầu hoa oải hương cùng với nhiều loại dầu thực vật khác.
Chất này là một este của Pelargonic Acid hay còn gọi là Isononanoic Acid. Pelargonic Acid là một axit béo có 9 nguyên tử cacbon.
Cơ chế hoạt động
Cetearyl Isononanoate là một chất hòa tan tốt cho các thành phần sản phẩm chăm sóc cá nhân và mỹ phẩm. Chất này đặc biệt tương thích với da tạo thành một lớp màng chống thấm nước trên bề mặt da và do đó bảo vệ da chống lại sự mất nước của biểu bì.
Acid formic là gì?
Acid formic là dạng hợp chất acid hữu cơ đơn giản nhất trong nhóm Cacboxylic với công thức là HCOOH hoặc CH2O2. Thành phần này là một sản phẩm trung gian trong tổng hợp hóa học và cũng xuất hiện trong tự nhiên. Phần lớn hợp chất này có trong nọc độc và vòi đốt của nhiều loại côn trùng thuộc bộ cánh màng như con ong, con kiến, chủ yếu là các loài kiến.

Acid fomic còn có những tên gọi khác nhau như Acid metanoic, Acid hydrocacboxylic, Acid aminic, Andehit formic…
Đây là chất lỏng, không màu, dễ bốc khói, hòa tan trong nước và các chất dung môi hữu cơ phân cực và hòa tan một ít trong các Hydrocacbon.
Mặc dù là một Acid yếu nhưng so sánh trong dãy đồng đẳng Acid cacboxylic no, đơn chức, mạch hở thì Acid formic lại là axit mạnh nhất, mạnh hơn cả Acid cacbonic (H2CO3) bởi vì hiệu ứng dồn mật độ electron trong nhóm Cacboxyl (-COOH).
Trong Hydrocacbon và trong pha hơi, Acid formic bao gồm các chất Dimer liên kết Hydro chứ không phải là các phân tử riêng lẻ.
Trong ngành công nghiệp hóa chất, Acid formic từ lâu đã được coi là một hợp chất hóa học chỉ được sử dụng trong công nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, Acid formic đã trở thành sản phẩm phụ của quá trình sản xuất Acid acetic. Ngày nay Acid formic được sử dụng ngày càng nhiều như một chất bảo quản và kháng khuẩn trong thức ăn chăn nuôi.
Điều chế sản xuất
Ngay từ thế kỷ 15, một số nhà giả kim và nhà tự nhiên học đã biết rằng đồi kiến tỏa ra hơi acid. Người đầu tiên mô tả sự phân lập của chất này bằng cách chưng cất một số lượng lớn xác kiến là nhà tự nhiên học người Anh John Ray vào năm 1671. Kiến tiết ra Acid formic để tấn công và phòng thủ. Acid fomic lần đầu tiên được tổng hợp từ Acid hydrocyanic bởi nhà hóa học người Pháp Joseph Gay-Lussac. Năm 1855, một nhà hóa học người Pháp khác, Marcellin Berthelot, đã phát triển một phương pháp tổng hợp từ Carbon monoxide tương tự như phương pháp được sử dụng ngày nay.
Acid formic được tổng hợp trong phòng thí nghiệm bằng hai cách:
- Nung nóng Acid oxalic trong Glixerol khan và chiết bằng cách chưng hơi.
- Thủy phân Acid etyl isonitrile với chất xúc tác là dung dịch HCl.
Trong công nghiệp, Acid fomic có thể thu được bằng các cách:
Một số lượng đáng kể Acid fomic được sản xuất qua quá trình điều chế các chất khác, đặc biệt là Acid acetic. Đây là quá trình được gọi là chiết xuất sản phẩm phụ.
Metanol tác dụng với Cacbon monoxide dưới sự xúc tác của một bazơ mạnh sẽ sẽ tạo ra Metyl fomiat, một dẫn xuất của Acid fomic. Sau đó, tiến hành phản ứng thủy phân của Metyl fomiat tạo ra Acid fomic.
Để quá trình thủy phân trực tiếp Metyl fomiat, nhà sản xuất thực hiện quá trình gián tiếp khi cho Metyl fomiat phản ứng với Amoniac để tạo ra Formamide và sau đó thủy phân Formamide bằng Acid sulfuric để tạo ra Acid formic.
Cơ chế hoạt động
Acid formic thể hiện tính chất của nhóm Cacboxyl (-COOH) như sau:
Đặc trưng nổi bật của nhóm này chính là phản ứng Este hóa. Đây là phản ứng thuận nghịch được xúc tác nhờ Acid sunfuric đặc và nhiệt độ.
Tính chất cuối cùng đó là phản ứng tráng gương hay còn được gọi là phản ứng tráng bạc. Đây là loại phản ứng đặc trưng của Andehit. Đặc trưng của phản ứng tráng gương là tính khử. Khi nhóm chức Anđehit tác dụng với AgNO3 hoặc Ag2O trong môi trường NH3 tạo ra Ag.
Chiết xuất bột ngọc trai là gì?
Chiết xuất bột ngọc trai là loại bột được nghiền nhỏ, mịn từ những viên ngọc trai. Chiết xuất bột ngọc trai này được biết đến với công dụng làm đẹp cho phái đẹp từ cổ xưa. Từ xưa giới vua chúa, quý tộc đã sử dụng bột ngọc trai để chăm sóc sắc đẹp. Nữ hoàng Ai Cập cũng đã dùng bột ngọc trai để chăm sóc sắc đẹp của mình.
Trong hoàng tộc Philippines, trẻ nhỏ đã được cho sử dụng bột ngọc trai để giúp cho làn da sáng đẹp và săn chắc.

Châu Âu cũng đã dùng bột ngọc trai để làm đẹp và chăm sóc sức khỏe cho các gia đình hoàng gia từ rất lâu đời. Trong y học phương Đông chỉ có 2 trường phái lớn đó là Trung Quốc và Ấn Độ sử dụng bột ngọc trai như một phương thức phối hợp.
Từ sau Công nguyên, thành phần ngọc trai này đã được sử dụng để làm đẹp. Trong lịch sử, Võ Tắc Thiên là nữ đế đầu tiên biết chăm sóc sắc đẹp bằng bột ngọc trai. Người ta cho rằng đây là cách giúp cho làn da khỏe mạnh, trắng sáng.
Ngoài sử dụng trên da để chăm sóc sắc đẹp, bột ngọc trai còn được dùng như một loại dược liệu quý để giúp ổn định thần kinh, giảm căng thẳng, tĩnh tâm.
Ở Ấn Độ bột ngọc trai cũng được sử dụng như một dược liệu để cân bằng và chống lão hóa da. Bột ngọc trai vừa có khả năng chống viêm vừa có tác dụng làm ấm cơ thể, giải nhiệt. Thậm chí, thành phần này còn được coi như thành phần của nước bùa yêu.
Điều chế sản xuất
Trước khi điều chế ngọc trai khâu đầu tiên là lựa chọn ngọc trai. Người ta sẽ chọn loại ngọc tinh khiết nhất sau đó đem khử trùng bằng nước sôi. Công đoạn nghiền bột sao cho thật nhỏ, mịn. Bột ngọc trai được bảo quản cẩn thận trong lọ thủy tinh hoặc sứ để nơi thoáng mát khô ráo và không có ánh nắng chiếu trực tiếp vào thành phẩm.
Cơ chế hoạt động
Thông tin về cơ chế hoạt động của chiết xuất bột ngọc trai còn rất hạn chế.
Ammonium là gì?
Ammonium Acryloyldimethyltaurate/Vp Copolymer là một polymer tổng hợp (phân tử lớn hình thành từ nhiều phân tử nhỏ gọi là monome) có khả năng tạo thành kết cấu dạng gel mướt mịn cho sản phẩm.

Trong mỹ phẩm, cụ thể là trong các loại kem dưỡng có cả nước và dầu, ammonium có công dụng của một chất làm đặc và điều chỉnh kết cấu sản phẩm được mướt mịn. Đó là lý do khi người dùng sử dụng sản phẩm sẽ không có cảm giác bị bết dính khó chịu.
Ammonium Acryloyldimethyltaurate/VP Copolymer tồn tại dưới dạng bột trắng, có thể hoạt động trong pH nồng độ khoảng từ 0.5 - 1.2%.
Cellulose Gum là gì?
Cellulose gum là muối Natri của Carboxymethyl cellulose (CMC), lần đầu tiên được sản xuất vào năm 1918. Sau khi được giới thiệu rộng rãi ở Mỹ vào năm 1946, Cellulose gum được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực, trong đó có mỹ phẩm bởi những chức năng quan trọng như chất làm đặc, ổn định nhũ tương, chất kết dính…

Về mặt hóa học, Cellulose gum là một Polymer, là một dẫn xuất Cellulose với các nhóm Carboxymethyl (-CH2COOH) liên kết với một số nhóm Hydroxyl của các Glucopyranose monomer tạo nên khung sườn Cellulose. Chất này thường được sử dụng dưới dạng Natri carboxymethyl cellulose.
Đây là chế phẩm ở dạng bột trắng, hơi vàng, gần như không mùi hạt hút ẩm, có thể tạo dung dịch dạng keo với nước nhưng không hòa tan trong Ethanol.
Điều chế sản xuất
Cellulose gum được sản xuất từ các bộ phận của một số loài thực vật, chủ yếu lấy phần cây hoặc bông. Nguồn Cellulose gum được trồng ổn định và được chế biến bằng cách sử dụng Acid axetic và muối. Axit axetic là một axit nhẹ, là thành phần chính của giấm. Sau khi trộn bông hoặc gỗ với Acid axetic và muối, hỗn hợp này được lọc và làm khô để tạo ra một loại bột mịn, đó là Cellulose gum.
Cơ chế hoạt động
Độ tan và nhiệt độ
Cellulose gum có độ tan và nhiệt độ phụ thuộc vào giá trị DS tức là mức độ thay thế. Giá trị DS cao cho độ hòa tan thấp và nhiệt độ tạo kết tủa thấp hơn do sự cản trở của các nhóm Hydroxyl phân cực. Cellulose gum tan tốt ở 40 độ C và 50 độ C.
Cách tốt nhất để hòa tan Cellulose gum trong nước là trộn bột trong nước nóng, để các hạt Cellulose methyl được phân tán trong nước, khi nhiệt độ hạ xuống, khuấy đều thì các hạt này sẽ bị tan ra. Với dẫn xuất dưới 0.4, Cellulose gum không hòa tan trong nước.
Độ nhớt
Cellulose gum với dẫn xuất 0,95 và nồng độ tối thiểu 2% cho độ nhớt 25Mpa tại 25 độ C.
Thông thường, dung dịch 1% có pH = 7 – 8,5. Ở pH< 3 thì độ nhớt tăng, thậm chí kết tủa. Do đó không sử dụng được Cellulose gum cho các sản phẩm có pH thấp. Độ pH >7 thì độ nhớt giảm ít. Độ nhớt Cellulose gum giảm khi nhiệt độ tăng và ngược lại.
Cellulose Gum dễ dàng hòa tan trong nước và dung dịch Sorbitol ở các nồng độ khác nhau để mang lại độ nhớt mong muốn.
Tạo đông
Cellulose gum có khả năng tạo đông thành khối vững chắc với độ ẩm rất cao (98%). Nồng độ Cellulose gum, độ nhớt của dung dịch và lượng nhóm Acetat là những yếu tố quyết định độ chắc và tốc độ tạo đông khi được thêm vào để tạo đông. Nồng độ tối thiểu để Cellulose gum tạo đông là 0,2% và của nhóm Acetat là 7% so với Cellulose gum.
Cellulose gum chủ yếu được sử dụng để làm đặc và ổn định mỹ phẩm. Ngoài ra, do cấu trúc cao phân tử của Cellulose gum nên chất này hoạt động như chất tạo màng. Cellulose gum cũng được sử dụng để cải thiện hiệu quả dưỡng ẩm.
Hỗn hợp Cellulose gum và Xanthan có thể được sử dụng để cải thiện độ nhớt của công thức cuối cùng.
1 - Eicosanol là gì?
1-Eicosanol là một rượu béo no, mạch dài, là một chất rắn dạng sáp, không tan trong nước. Rượu béo thường là rượu chính có khối lượng phân tử cao, mạch thẳng có nguồn gốc từ dầu và mỡ tự nhiên. Rượu béo bão hòa không có liên kết đôi cacbon-cacbon và chúng có công thức - CH3 (CH2) nOH - với các biến thể về “n”.Công thức hóa học của 1-Eicosanol là C20H42O.
Công thức hóa học của 1-Eicosanol là C20H42O
Các tính chất của 1-eicosanol gồm:
-
1-eicosanol là chất rắn dạng sáp trong điều kiện môi trường xung quanh. Ở thể rắn, 1- eicosanol có khả năng bị phơi nhiễm khi tiếp xúc trực tiếp qua da với chất, qua đường tiêu hóa và qua việc hít phải các hạt bụi nếu chúng được tạo ra.
-
1-eicosanol dễ bay hơi và độ hòa tan trong nước thấp. 1-eicosanol được cho là sẽ có độ bay hơi tối thiểu ở nhiệt độ môi trường xung quanh. Dựa trên dữ liệu về độ hòa tan đo được, 1- eicosanol không được coi là hòa tan trong nước, cho thấy rằng chất này không có khả năng hòa tan trong nước và tạo thành dung dịch nước. Các chất không tan trong nước bị giảm khả năng hấp thu qua đường tiêu hóa hoặc phổi.
-
1-eicosanol có thể đi qua màng lipid; do đó, sự hấp thụ trong các mô mỡ có thể xảy ra. Tuy nhiên, cấu trúc của chất này cho thấy nó có khả năng bị chuyển hóa, dẫn đến giảm khả năng tích lũy sinh học. 1-Eicosanol được cho là có độ bền thấp.
-
1-eicosanol là chất dễ phân hủy sinh học, có nghĩa là nó có khả năng bị phân hủy trong môi trường thành carbon dioxide và nước. Các
trung gian được mong đợi bao gồm các axit béo, có thể được kết hợp vào sinh khối thông qua các quá trình trao đổi chất bình thường.
Điều chế sản xuất 1-Eicosanol
Đây là một loại cồn béo có mạch thẳng, được tạo ra bởi quá trình arachidic acid và arachidonic acid có trong dầu đậu phộng.
1-eicosanol là một loại cồn béo có mạch thẳng, được tạo ra bởi quá trình arachidic acid
Cơ chế hoạt động
Cơ chế hoạt động của 1-eicosanol chủ yếu do tính chất hấp thụ và bài tiết của nó.
Hấp thu
Do khả năng hòa tan trong nước thấp, 1-eicosanol dự kiến sẽ không được hấp thụ khi tiếp xúc qua da, qua đường hô hấp hoặc qua đường miệng (qua đường tiêu hóa).
1-eicosanol có thể sẽ được phân phối đến các mô mỡ trong cơ thể. Tuy nhiên, nó được mong đợi sẽ được chuyển hóa và thải trừ qua nước tiểu và phân.
Bài tiết
1-eicosanol có khả năng được bài tiết dưới dạng liên hợp glucuronid với một lượng nhỏ trong nước tiểu. Một nghiên cứu trên chuột Wistar tiếp xúc qua đường miệng với cồn cetyl tương tự đã đo được 13,9% thải trừ trong phân và 13,3% trong nước tiểu.
Một phần trăm hoặc ít hơn được giữ lại trong mô mỡ bụng, gan và phổi, và 64,3% được giữ lại trong thân thịt. Cetyl alcohol là một chất nội sinh, rất dễ bị oxy hóa thông qua các quá trình trao đổi chất, tham gia vào quá trình chuyển hóa lipid và sinh tổng hợp sáp và plasmalogen ở động vật có vú.
Beta-Sitosterol là gì?
Beta-sitosterol hay β-Sitosterol (C29H50O) là chất được tìm thấy trong thực vật, cụ thể là trong trái cây, rau, quả và hạt. Ngoài ra, Beta-sitosterol còn có sẵn trong dạng bổ sung chế độ ăn uống.
Được các nhà hóa học gọi là "ester sterol của thực vật”, Beta-sitosterol có thể sử dụng để làm thuốc, mang lại một số lợi ích nhất định cho sức khỏe. Cụ thể như Beta-sitosterol có khả năng làm giảm mức cholesterol bằng cách hạn chế lượng cholesterol vào cơ thể chúng ta. Mặt khác, Beta-sitosterol còn có khả năng liên kết cùng tuyến tiền liệt giúp làm giảm sưng/viêm.

Cơ chế hoạt động
Có công thức phân tử tương tự cholesterol, Beta-sitosterol còn được gọi là sterol thực vật. Beta-sitosterol hoạt động như một chất oxy hóa tự nhiên, có khả năng ức chế sterol methyltransferase, làm giảm cholesterol máu, giảm viêm sưng trong bệnh phì đại lành tính tiền liệt tuyến (BPH).
Caffeic Acid là gì?
Caffeic Acid là một hợp chất hữu cơ được phân loại như một acid hydroxycinnamic. Caffeic Acid tồn tại ở dạng rắn, có màu vàng, chứa cả nhóm chức phenol và acrylic.
Vì là chất trung gian quan trọng trong quá trình sinh tổng hợp lignin, Caffeic Acid được tìm thấy trong tất cả các loài thực vật như rau, hoa quả, thảo mộc, hạt cà phê, gia vị dựa trên thực vật cũng như nhiều thứ khác mà chúng ta ăn uống mỗi ngày.

Caffeic Acid được đánh giá là chất có ích trong lĩnh vực y học bởi khả năng chống viêm và chống oxy hóa tiềm năng.
Đặc biệt, với lợi ích chống oxy hóa (giống như nhiều polyphenol khác), Caffeic Acid sẽ giúp làm chậm sự căng thẳng oxy hóa trong cơ thể và chống lại các gốc tự do mà stress này tạo ra. Caffeic Acid còn có thể hỗ trợ thúc đẩy tăng mức độ collagen và giảm sự lão hóa sớm của tế bào trên da.
Điều chế sản xuất Caffeic Acid
Caffeic Acid là sản phẩm thứ hai trong quá trình phân hủy axit chlorogenic (CGA). Trong quá trình rang cà phê, CGA phân hủy dần dần để tạo ra Caffeic Acid và quinic với hạm lượng tương đối cân bằng.

Do phản ứng phụ thuộc vào nhiệt độ, ta có thể ước tính rằng sự hình thành của các hợp chất thứ cấp này xảy ra tại hoặc xung quanh vết nứt đầu tiên khi hạt cà phê bắt đầu trải qua những thay đổi vật lý quan trọng.
Hiện nay, việc sản xuất Caffeic Acid chủ yếu thông qua phương pháp chiết xuất thực vật (kim ngân hoa là chủ yếu), tổng hợp hóa học cũng như lên men sinh học.
Sản phẩm liên quan








